Việt Nam cần sớm thành lập Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Quốc gia

TPO – Theo PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, muốn phá vỡ rào cản, khó khăn và thúc đẩy sự phát triển ngành công nghệ vũ trụ cần xây dựng chiến lược dài hạn, không chỉ ở mức 10 năm mà phải dài hơi hơn, đến năm 2040, 2050 và có cơ chế đảm bảo tài chính đi theo chiến lược. Để tạo ra một sức mạnh tổng hợp, cần xây dựng một Cơ quan hàng không vũ trụ quốc gia như nhiều nước đã làm.

24/07/2025 08:45

report KHÁCH MỜI THAM GIA TỌA ĐÀM

1- TS Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ

2- TS Nguyễn Trọng Hiền, chuyên gia của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA).

3- TS Nguyễn Lương Quang, chuyên gia đến từ Viện Năng lượng nguyên tử và Năng lượng thay thế – CEA Paris Saclay của Pháp.

4- Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Viễn thám Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

5- PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,

6- Ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ.

7- Bà Lê Thanh Hương, Tổng giám đốc Công ty TNHH Công Nghệ Sao Vega

24/07/2025 09:03

report Việt Nam trước thời điểm vàng phát triển công nghệ vũ trụ

Phát biểu mở đầu tọa đàm “Đưa công nghệ vũ trụ thành động lực phát triển mới”, nhà báo Phùng Công Sưởng, Tổng biên tập báo Tiền Phong cho rằng, trong thế kỷ XXI, công nghệ vũ trụ không còn là lĩnh vực giới hạn trong các chương trình khám phá không gian của một số ít quốc gia. Thay vào đó, ngành công nghệ này đã trở thành một trụ cột chiến lược của nhiều nền kinh tế hiện đại, với các ứng dụng thiết thực trong đời sống như dự báo thời tiết, phòng chống thiên tai, viễn thông, nông nghiệp thông minh, giám sát môi trường, quy hoạch đô thị, logistics, cũng như trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng.

Nhà báo Phùng Công Sưởng, Tổng biên tập báo Tiền Phong

Ông Sưởng dẫn báo cáo mới nhất của Space Foundation, kinh tế vũ trụ toàn cầu năm 2024 đã đạt gần 613 tỷ USD và được dự báo sẽ vượt mốc 1.000 tỷ USD vào năm 2030, cho thấy tốc độ tăng trưởng ấn tượng và tiềm năng to lớn. Và tại Việt Nam, mặc dù công nghệ vũ trụ còn ở giai đoạn đầu phát triển, chúng ta đã có những bước đi quan trọng.

“Công nghệ vũ trụ: Không chỉ là giấc mơ ngoài không gian”

Về làm chủ công nghệ, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam do PGS.TS Phạm Anh Tuấn dẫn dắt, đã thiết kế, chế tạo thành công các vệ tinh siêu nhỏ như PicoDragon, NanoDragon, MicroDragon, và hiện đang phối hợp cùng Nhật Bản để triển khai vệ tinh LOTUSat-1 sử dụng công nghệ radar khẩu độ tổng hợp.

Về ứng dụng, các doanh nghiệp tiên phong như Công ty TNHH Công nghệ Sao Vega, do bà Lê Thanh Hương điều hành, đã phát triển các nền tảng địa không gian thông minh phục vụ giám sát tài nguyên, phát triển kinh tế – xã hội và ứng phó thiên tai. Việt Nam cũng đã sở hữu các vệ tinh viễn thông Vinasat-1, Vinasat-2 và vệ tinh quan sát trái đất VNREDSat-1.

Tổng biên tập báo Tiền Phong nhấn mạnh, chúng ta đang đứng trước một thời điểm hết sức quan trọng. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, xác định rõ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Trong đó, công nghệ vũ trụ là một trong những lĩnh vực ưu tiên phát triển để phục vụ chiến lược an ninh – quốc phòng và phát triển bền vững đất nước.

Chính phủ cũng đang từng bước xây dựng chính sách hỗ trợ hạ tầng, tài chính và nguồn nhân lực để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành vũ trụ cất cánh, hướng tới hình thành nền công nghiệp vũ trụ Việt Nam trong tương lai.

Với tinh thần đó, tọa đàm được tổ chức với mong muốn trở thành diễn đàn đối thoại đa chiều giữa các nhà quản lý, chuyên gia trong và ngoài nước, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, nhằm thảo luận về những cơ hội và thách thức trong phát triển công nghệ vũ trụ tại Việt Nam đồng thời đề xuất các cơ chế chính sách, mô hình hợp tác hiệu quả, góp phần thúc đẩy hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia có sự tham gia mạnh mẽ của lĩnh vực công nghệ vũ trụ.

“Chúng tôi tin rằng, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng nỗ lực của các cơ quan, doanh nghiệp và đội ngũ khoa học công nghệ, Việt Nam hoàn toàn có thể từng bước làm chủ công nghệ vũ trụ, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh và nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế”, nhà báo Phùng Công Sưởng nói.

24/07/2025 09:26

report Công nghệ vũ trụ là trụ cột an ninh – kinh tế trong kỷ nguyên mới

TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ:

Toạ đàm “Đưa công nghệ vũ trụ trở thành động lực phát triển mới” là bước đi đầu tiên để khơi lại tình yêu, sự quan tâm cho xã hội, giới trẻ đối với ngành công nghệ cao, đặc biệt là ngành công nghệ vũ trụ.

Với kinh nghiệm từng là Chủ tịch Ủy ban Vũ trụ Việt Nam tôi đã có dịp tiếp xúc với nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, đã đánh giá về vai trò của ngành công nghệ vũ trụ đối với sự phát triển của kinh tế – xã hội, cũng như bảo đảm an ninh quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

z6835432293363-f2640e0296f38ea088736f343ba51a41.jpg
TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ

Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã đặt vấn đề rất đúng đắn về vai trò của công nghệ vũ trụ. Thủ tướng cũng đã ban hành Quyết định 131 xác định danh mục các công nghệ chiến lược và các sản phẩm công nghệ chiến lược mà Nhà nước tập trung phát triển. Trong đó, có công nghệ vũ trụ và một số sản phẩm công nghệ vũ trụ phù hợp với nhu cầu, năng lực của nền kinh tế Việt Nam. Tôi cho rằng, đây là đánh giá của lãnh đạo của Đảng, Nhà nước rất đúng về vai trò của công nghệ vũ trụ.

Trong giai đoạn hiện nay, công nghệ vũ trụ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam và toàn cầu, nhất là khi chứng kiến các cuộc xung đột vũ trang trên thế giới. Các quốc gia lớn sẽ không đạt được mục tiêu của họ nếu thiếu các thiết bị công nghệ vũ trụ. Tôi cũng rất vui mừng Chính phủ Việt Nam đang có ý định xây dựng mạng lưới vệ tinh tầm thấp với sự hỗ trợ của Elon Musk.

Nếu chúng ta tự lực được công nghệ làm chủ, phần nào đó làm chủ được không gian vũ trụ thiết yếu thì đất nước chúng ta mới có cơ hội làm chủ công nghệ này và ứng dụng vào phát triển kinh tế – xã hội.

Những năm qua, Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực này, bằng chứng là dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam ở Hòa Lạc, một dự án lớn nhất về khoa học công nghệ từ trước đến nay. Ngoài ra, tỉnh Bình Định cũng đã xây dựng một Trung tâm Khám phá Khoa học, nơi có nhiều hạng mục liên quan đến công nghệ vũ trụ, thu hút đông đảo học sinh, sinh viên.

z6835467324073-d46ec4d5b952a7c84d29290ee1859f94.jpg

Trong thời gian tới, Việt Nam cần có sự quyết tâm và quyết liệt hơn nữa trong việc đầu tư cho công nghệ vũ trụ. Cần có một hội thảo quốc gia về lĩnh vực này để khởi động lại chiến lược phát triển công nghệ vũ trụ Việt Nam, vốn đã ban hành từ lâu và cần được cập nhật. Công nghệ vũ trụ không chỉ là một công nghệ chiến lược mà còn phải là một công nghệ hàng đầu, cùng với các lĩnh vực như vi mạch bán dẫn hay năng lượng hạt nhân.

Việc thu hút sự tham gia của các nhà khoa học Việt Nam ở trong và ngoài nước là rất quan trọng để đạt được mục tiêu của Nghị quyết 57, đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Tôi nghĩ rằng, chúng ta phải đầu tư sâu hơn, nhiều hơn cho công nghệ vũ trụ, vì nhu cầu an ninh quốc phòng đang đặt ra vấn đề mà các nhà khoa học Việt Nam phải quan tâm. Chúng ta không thể bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền không gian, nếu chúng ta không có những nhà khoa học giỏi về công nghệ vũ trụ.

24/07/2025 10:06

report Không có tự do nghiên cứu, khó có khoa học đột phá

TS Nguyễn Trọng Hiền, chuyên gia của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA):

Giai đoạn đầu của công nghệ không gian cũng bắt nguồn từ những điều cơ bản, như máy cảm biến hay máy đo đạc ban đầu chỉ để phục vụ việc chụp ảnh bầu trời và mặt đất, nhưng công nghệ này hiện giờ đã được đưa vào cả Iphone.

Web browser ra đời năm 1994, bắt nguồn từ nền tảng mà các nhà vật lý dùng để trao đổi các bài viết, kết quả nghiên cứu của họ. Bài toán đặt ra sau đó là làm sao có thể tìm kiếm thật nhanh câu trả lời cho các câu hỏi, và Google đã giải quyết vấn đề một cách thấu đáo, hiện giờ đã phát triển thành công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) mà chúng ta có hiện nay.

z6835466363660-553b49ff9fdb68ba223700703b1e264c.jpg
TS Nguyễn Trọng Hiền, chuyên gia của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA)

Tất cả những thành quả này đều bắt đầu từ những bước nhỏ ban đầu. Trong mấy chục năm qua kể từ khi có web browser và Google, công nghệ đã phát triển rất xa. Những gì tôi nói hôm nay ngày mai có thể đã lỗi thời, nhưng điểm chung là trong tất cả xu thế phát triển của khoa học, NASA hay các nước khác đều dựa vào những gì có thể làm được, từ sở trường đã hoặc đang có.

Sở trường của Việt Nam vẫn là con người. Chúng ta có thể bàn về chính sách, nguồn lực, nguồn vốn mà Nhà nước sẵn sàng chi cho công trình nghiên cứu khoa học, nhưng nếu không trao sự tự do cho các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học thì khó phát triển tốt.

Tôi cho rằng thách thức lớn đối với Việt Nam là vấn đề quản lý. Về câu hỏi làm sao thu hút được nhân tài, nếu có môi trường thông thoáng, chúng ta sẽ thu hút được. Số đông trí thức Việt Nam ở nước ngoài muốn về nước nhưng nhiều người chưa về vì cơ chế, môi trường không thuận lợi cho họ.

24/07/2025 10:25

report Công nghệ vũ trụ đã thẩm thấu vào mọi mặt đời sống

Ông Trần Tuấn Ngọc – Cục trưởng Cục Viễn thám Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường:

Công nghệ vũ trụ đã được ứng dụng rộng rãi tại Việt Nam trong lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội và phòng chống thiên tai. Nhu cầu sử dụng các sản phẩm của ngành công nghệ vũ trụ là rất lớn, bao gồm các lĩnh vực viễn thông, viễn thám và định vị dẫn đường. Công nghệ vũ trụ đã thẩm thấu vào nhiều khía cạnh của đời sống.

Việc ứng dụng công nghệ vũ trụ hiện nay như không khí, chúng ta thẩm thấu nhưng không biết. Tôi lấy ví dụ một shipper sử dụng điện thoại có định vị vệ tinh để giao hàng chính xác, hay các giao dịch ngân hàng hiện đại đều cần đồng bộ thời gian từ vệ tinh GPS.

z6835587117683-06d424d9a1a17c9cb6529ee9b8e597ea.jpg
Ông Trần Tuấn Ngọc – Cục trưởng Cục Viễn thám Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Về ứng dụng, hầu hết các bộ, ngành và địa phương đã sử dụng công nghệ viễn thám để giám sát và quản lý. Trong ngành nông nghiệp và môi trường, công nghệ vũ trụ được áp dụng trong đo đạc bản đồ, quản lý biển đảo, trồng trọt, lâm nghiệp. Các địa phương như Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng đã bắt đầu có những ý tưởng ứng dụng công nghệ vũ trụ vào các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Về phía tư nhân, các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu tham gia mạnh mẽ vào lĩnh vực này, cho thấy sự phát triển từ khối nhà nước sang khối tư nhân.

Nhu cầu ứng dụng công nghệ vũ trụ trong thời gian tới sẽ có những bước chuyển biến mạnh mẽ, được thúc đẩy bởi các nghị quyết của Đảng và Nhà nước. “Tứ trụ cột” bao gồm các nghị quyết số 57, 59, 68 và 69 đã nhấn mạnh vai trò của công nghệ vũ trụ và thông tin từ vệ tinh. Mô hình chính quyền điện tử hai cấp cũng sẽ thúc đẩy các địa phương ứng dụng công nghệ này nhiều hơn. Trung ương sẽ tập trung vào công tác hậu kiểm và thanh tra giám sát, trong đó công nghệ vũ trụ là một công cụ hữu hiệu.

Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân cũng khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này. Ngoài ra, việc xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là nông sản, đòi hỏi sự minh bạch hóa chuỗi cung ứng, và công nghệ viễn thám có thể giúp xác định nguồn gốc sản phẩm một cách chính xác, đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường quốc tế.

24/07/2025 10:30

report Chuyển giao công nghệ là chìa khóa để khoa học không chỉ nằm trong phòng thí nghiệm

TS. Nguyễn Lương Quang, chuyên gia đến từ Viện năng lượng nguyên tử và năng lượng thay thế – CEA Paris-Saclay của Pháp:

Tôi có kinh nghiệm làm việc cho cơ quan nghiên cứu hạt nhân và năng thay thế của Pháp, Viện Vật lý thiên văn lý thuyết Canada và một tập đoàn tư nhân. Từ những kinh nghiệm đó, tôi muốn chia sẻ về xu hướng chung trong nghiên cứu cơ bản, về vấn đề thương mại hoá để chuyển giao công nghệ cho các công ty khởi nghiệp (startup) hoặc tập đoàn lớn để cùng khai thác.

Khởi đầu từ nghiên cứu cơ bản – Đi xa nhờ tư duy mở

Tại Pháp, phòng Vật lý thiên văn của Viện năng lượng nguyên tử và năng lượng thay thế được thành lập từ đầu những năm 1990, sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, nhằm phát triển bộ cảm biến có thể theo dõi các lò phản ứng hạt nhân trên toàn cầu.

z6835504002435-1fb7a7b39e4486885e9a4347cc3955dd.jpg
TS. Nguyễn Lương Quang, chuyên gia đến từ Viện năng lượng nguyên tử và năng lượng thay thế – CEA Paris-Saclay

Sau khi kết thúc nhiệm vụ này, một số nhà khoa học tại Saclay nghĩ đến ứng dụng khác của bộ cảm biến, dùng bộ cảm biết để nhìn lên trời và quan sát bầu trời, từ đó xây dựng bộ cảm biến dành cho thiên văn. Bắt đầu từ Xray, tức là nguồn năng lượng cực kỳ cao, họ đã chuyển sang mảng năng lượng cực kỳ thấp. Hiện tại, công nghệ bộ thu của Sablay đang nằm trong vùng giao thao. Từ kinh nghiệm mà phòng thiên văn thực hiện, họ chuyển hướng từ công nghệ siêu dẫn sang những công nghệ mới như công nghệ lượng tử.

Vấn đề là ban đầu có đầu tư cho khoa học nghiên cứu cơ bản, tận dụng những con người và công nghệ hiện có rồi áp dụng sang các lĩnh vực khác. Nhóm vật lý thiên văn của Saclay chỉ có dưới 100 người, nhưng được cơ quan vũ trụ Pháp tài trợ. Họ có quyền quyết định những dự án họ muốn tham gia, liên kết với các trung tâm nghiên cứu khác trên thế giới như NASA. Nhóm nghiên cứu vật lý thiên văn của Pháp cũng chuyển giao công nghệ cho các startup và tập đoàn khoa học công nghệ.

Hồi mới thành lập, Saclay chỉ có quy mô khiêm tốn, nay đã trở thành một thung lũng khoa học công nghệ. Ở đó không chỉ có phòng nghiên cứu (lab) của các nhà khoa học mà cả lab của các tập đoàn lớn để tận dụng nguồn tài nguyên con người xung quanh Saclay. Chính phủ Pháp đầu tư nhiều cho các công ty và tập đoàn để họ phát triển thành tựu nghiên cứu từ phòng lab thành sản phẩm mang lại lợi nhuận kinh tế. Các công nghệ như drone, UAV (thiết bị không người lái), tên lửa cũng được đầu tư để phát triển. Vấn đề chuyển giao và tư nhân hoá công nghệ rất quan trọng. Canada cũng làm theo cách như vậy.

z6835467332935-0895150c9cfabad90c776eb518c337ac.jpg

Với những công nghệ khó ứng dụng thực tế, các tập đoàn cũng đặt ra câu hỏi là có nên bỏ không sau khi đã đầu tư nhiều năm mà vẫn chưa thấy lợi nhuận. Nhà khoa học đạt giải Nobel Alain Aspect trả lời: Việc đầu tư cho những công ty công nghệ hoặc nhóm công nghệ dù tốn tiền, nhưng không ra khỏi biên giới mà quay vòng trong nước, giúp nâng cao khả năng phát triển công nghệ của đội ngũ trong nước. Có những công nghệ khó có thể mang lại lợi nhuận kinh tế trong thời gian ngắn. Ở những nước phát triển như Pháp hoặc Mỹ, các nhóm nghiên cứu nhận đầu tư của chính phủ bắt buộc phải cung cấp mã nguồn mở để các công ty có thể tham gia với họ, từ đó tạo ra đội ngũ cùng làm việc. Các nhà khoa học không có tư duy làm kinh tế, trong khi các công ty có thể phát triển từ các kết quả nghiên cứu đó.

Muốn đi xa, phải có vườn ươm và thế hệ kế tiếp

Về đào tạo con người, ngoài chương trình chính thống, những trường chuyên đề có vai trò rất quan trọng để bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho các thế hệ trẻ. Một điều Việt Nam còn thiếu là vườn ươm startup. Mô hình này cần được thực hiện đồng thời giữa cơ quan Nhà nước và công ty đầu tư, vì công ty đầu ty mới có khả năng mang lại lợi nhuận cho xã hội và công ty. Tôi vẫn chưa thấy xu hướng này ở Việt Nam. Nói tóm lại, chúng ta cần các yếu tố: đầu tư cho nghiên cứu cơ bản; chuyển giao công nghệ cho các công ty tư nhân; mở nguồn tài nguyên, dữ liệu; đào tạo thế hệ kế tiếp tại các trường chuyên đề.

24/07/2025 10:44

report Phát triển công nghệ vũ trụ là yêu cầu cấp thiết của quốc gia

Ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ:

Quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc phát triển Ngành Công nghệ vũ trụ.

Phát triển công nghệ vũ trụ là yêu cầu tất yếu để bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia, nâng cao năng lực nội sinh về khoa học công nghệ, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố tiềm lực quốc phòng – an ninh, khẳng định vị thế Việt Nam trong khu vực và quốc tế.

Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực này, trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ KH&CN đã ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy phát triển, cụ thể:

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong đó đã đề ra nhiệm vụ “Ban hành Chương trình phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược; Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược (ưu tiên một số các lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực không gian vũ trụ…)” và “Ban hành các chiến lược nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong khai thác, phát triển không gian vũ trụ.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành một số Quyết định quan trọng về lĩnh vực Công nghệ vũ trụ như Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 của TTg ban hành “Chiến lược phát triển viễn thám quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040”.

Quyết định số 169/QĐ-TTg ngày 04/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ vũ trụ đến năm 2030.

Đồng thời trong thời gian gần đây, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký QĐ số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 ban hành Danh mục công nghệ chiến lược và Sản phẩm công nghệ chiến lược, trong đó công nghệ hàng không, vũ trụ nằm trong nhóm 11 công nghệ chiến lược được ưu tiên đầu tư phát triển.

Đối với nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược được ưu tiên đầu tư phát triển cũng bao gồm nhiều sản phẩm trong đó có các sản phẩm thuộc Lĩnh vực công nghệ vũ trụ bao gồm Vệ tinh viễn thám và viễn thông tầm thấp; Trạm mặt đất và điều khiển vệ tinh; Thiết bị bay không người lái.

Đối với 2 bài toán lớn trong số 21 bài toán lớn do Bộ KH&CN công bố gồm nhiệm vụ (1) Nghiên cứu, sản xuất và chế tạo vệ tinh tầm thấp và (2) Xây dựng hệ thống quản lý và giám sát tài nguyên rừng quốc gia trên nền tảng số và công nghệ viễn thám hiện đang được các nhiều tổ chức khoa học, doanh nghiệp KHCN quan tâm đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai và hy vọng sớm có kết quả trong thời gian tới.

Trên thực tế, trong thời gian qua, việc làm chủ công nghệ chế tạo vệ tinh và ứng dụng công nghệ viễn thám phục vụ giám sát tài nguyên thiên nhiên đã được Đảng và Chính phủ quan tâm hỗ trợ, cụ thể:

Về vệ tinh, Việt Nam đã phát triển và vận hành một số vệ tinh nhỏ như PicoDragon (2013), MicroDragon (2019), NanoDragon (2021), và VNREDSat-1 (2013). Các dự án tương lai đang được lập kế hoạch để nâng cao khả năng quan sát và giám sát của Việt Nam.

Về hạ tầng trạm thu, điều khiển: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển viễn thám Trái đất được đầu tư xây dựng và quản lý bởi Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.

Về cơ sở hạ tầng viễn thông thông qua việc đầu tư 2 vệ tinh viễn thông VINASAT-1 và 2, được phóng lên quỹ đạo lần lượt vào các năm 2008 và 2012. Đến nay, 2 vệ tinh này đã đạt nhiều mục tiêu quan trọng trong đảm bảo an ninh quốc phòng cũng như phát triển kinh tế, xã hội.

Về Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển ứng dụng công nghệ vũ trụ từng bước được hoàn thiện thông qua Dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, hiện đang được triển khai tại Khu CNC Hòa Lạc với 3 thành phần chính bao gồm:

(1) Xây dựng hạ tầng kỹ thuật về lĩnh vực CNVT; (2) Chuyển giao, làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo vệ tinh nhỏ đến 180 kg; (3) Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực CNVT.

Về phát triển thiết bị bay không người lái, khinh khí cầu: Trong thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chế tạo thành công UAV và ứng dụng rộng rãi trong công tác thu thập dữ liệu tài nguyên và môi trường bao gồm thu nhận đối tượng địa lý, thành lập các bản đồ chuyên đề về lớp phủ bề mặt, biến động sử dụng đất…

Như vậy, có thể thấy Việt Nam đã hoàn toàn có khả năng thiết kế, chế tạo hệ thống vệ tinh cỡ nhỏ, UAV, khinh khi cầu,.. tuy nhiên các hệ thống này mới chỉ dừng lại ở mức đơn lẻ. Việc thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu vẫn là thách thức lớn đối với các nhà phát triển trong nước, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

z6835621154653-3b80aa33fc8c0a6e1a6851317b2beef9.jpg
Ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ.

24/07/2025 10:55

report Không gian vũ trụ là 1 trong 5 không gian chiến lược của Việt Nam

Ông Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm vũ trụ Việt Nam:

Về cơ sở hạ tầng, Trung tâm vũ trụ Việt Nam có một trung tâm khám phá vũ trụ bao gồm đầy đủ các thông tin từ lịch sử vũ trụ, khoa học vũ trụ, công nghệ vũ trụ, kinh thiên văn và lịch sử Việt Nam,… Mặc dù chưa được mở cửa chính thức nhưng Trung tâm vũ trụ Việt Nam luôn mong muốn được chào đón nhiều người đến thăm quan.

z6835664221009-c74b1f99561b019a990db92b1ded780f.jpg
Ông Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm vũ trụ Việt Nam

Từ năm 2006 đến nay nước ta đã xây dựng được đội ngũ nhân sự trẻ vận hành, điều khiển vệ tinh. Đây là nền tảng quan trọng để chúng ta đột phá. Nền tảng để phát triển ngành công nghệ này chính là Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định rõ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Đây là một cơ sở rất quan trọng đối với ngành công nghiệp vũ trụ, vì lần đầu tiên Bộ Chính trị có ý kiến chính thức để ưu tiên phát triển công nghệ vũ trụ.

Theo đó, không gian vũ trụ phải được xác định là một trong 5 không gian chiến lược của Việt Nam, cùng với không gian đất, biển, trời, không gian mạng. Tôi cho rằng việc này nên đưa vào Nghị quyết Đại hội Đảng khóa tới, và với nền tảng này thì chúng ta mới có bước tiến rất dài hạn cho phát triển vũ trụ.

24/07/2025 11:32

report Hoàn thiện thể chế, đầu tư đủ lớn để phát triển công nghệ vũ trụ

TS Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ:

Đảng và Nhà nước đã có tầm nhìn rất xa. Ngay từ năm 1979, Chính phủ đã thành lập Ủy ban Nghiên cứu về khoa học vũ trụ, tạo điều kiện cho chuyến bay của Phạm Tuân. Đến năm 2006, Thủ tướng đã phê duyệt chiến lược phát triển công nghệ vũ trụ đầu tiên và năm 2021, chiến lược mới cho giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn 2040 đã được ban hành.

Hiện, chúng ta có một thuận lợi lớn với các văn bản pháp lý và chính trị như Nghị quyết 57, Nghị quyết 193 và Quyết định 1131. Đây là những căn cứ quan trọng để chúng ta có thể thực hiện những điều mà các đại biểu đã trình bày.

Trong điều kiện nguồn lực của Việt Nam hiện nay để phát triển công nghệ vũ trụ, giải pháp đầu tiên cần hoàn thiện thể chế, trong đó kiện toàn Uỷ ban Vũ trụ Việt Nam, cơ quan phối hợp liên ngành để phối hợp hoạt động của các bộ, ngành, cơ quan khoa học điều phối chung hoạt động ở lĩnh vực khoa học vũ trụ.

z6835432291619-5ef9359433e76d60c2bb8d81e9758283.jpg
TS Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ

Xác định phạm vi đầu tư: Không dàn trải, tập trung vệ tinh nhỏ, viễn thám, mặt đất

Cần xem xét lại đầu tư của Nhà nước, có thể làm chủ, tiếp thu hay sáng tạo những công nghệ nền, công nghệ lõi trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ. Chúng ta xác định phạm vi đầu tư cho hợp lý, tránh lãng phí; trong đó cần ưu tiên quan tâm nghiên cứu phát triển hệ thống vệ tinh tầm thấp, vệ tinh nhỏ, hệ thống vệ tinh viễn thông – viễn thám và các hệ thống điều hành mặt đất, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học trong lĩnh vực khoa học vũ trụ.

Như vậy, Chính phủ nên giao Bộ KH&CN thành lập hay điều hành một chương trình khoa học công nghệ của quốc gia về công nghệ vũ trụ. Chương trình này có thể do Uỷ ban Vũ trụ Việt Nam chủ trì điều hành, để sớm có sản phẩm công nghệ chiến lược về vũ trụ.

z6835430683280-6159a9a02ae05576bd4a1bdea98c51fa.jpg

Thứ hai, cần cụ thể hoá quan điểm của Nghị quyết 57, 193 và 1131. Chúng ta phải xây dựng dự án về công nghệ vũ trụ và thí điểm hình thành tập thể khoa học mạnh về công nghệ vũ trụ, mà đứng đầu là một tổng công trình sư xuất phát từ các dự án. Chưa có dự án thì chưa chọn tổng công trình sư.

Chúng ta nên thí điểm cơ chế sandbox theo nghị quyết 193 của Quốc hội, tức là thí điểm một dự án công nghệ lớn với chức danh của tổng công trình sư được giao quyền tự chủ rất cao, chấp nhận rủi ro, chấp nhận mạo hiểm và miễn trừ trách nhiệm cho những người chủ trì dự án công nghệ lớn. Như vậy, có thể mời các nhà khoa học có trình độ, kinh nghiệm và uy tín để đứng đầu các dự án công nghệ lớn.

Việt Nam không thể trông chờ sự chuyển giao công nghệ vũ trụ từ nước ngoài. Liên quan đến an ninh quốc phòng, chúng ta phải làm chủ được công nghệ này thông qua xây dựng các dự án. Theo tôi cần có một khoản đầu tư đủ lớn từ Nhà nước. Công nghệ vũ trụ là lĩnh vực “quý tộc”, đầu tư lớn, nhưng sản phẩm có tính mạo hiểm cao. Chúng ta cần chấp nhận “đầu tư mạo hiểm”, “văn hoá thất bại”, chấp nhận rủi ro để các nhà khoa học dám dấn thân.

Ngoài ra cần có chính sách đào tạo và thu hút cán bộ, đặc biệt là cán bộ trẻ. Nếu chỉ trông chờ vào kinh tế thị trường, chúng ta sẽ khó có được những nhà khoa học giỏi trong các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản. Nhà nước cần có chính sách đặt hàng đào tạo như thời bao cấp, qua đó chúng ta đã có những nhà khoa học rất nổi tiếng.

Đồng tình với quan điểm của nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân, TS Nguyễn Trọng Hiền nhận định, nguồn lực của Việt Nam không được như các nước tiên tiến, nhưng đây không phải điều hạn chế sự phát triển của chúng ta về khoa học công nghệ.

z6835466388324-14522d2cb2509929005cc6b235886a9b.jpg
TS Nguyễn Trọng Hiền

“Tôi rất thích những ý kiến mà nguyên Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân vừa chia sẻ. Tôi muốn nhắc lại một ý là chúng ta nên thực hiện thí điểm cơ chế mới cho các nhà quản lý để họ thu hút nhân tài, tạo môi trường để các nhà chuyên môn phát triển khả năng của họ bằng những đề án kỹ thuật, bằng thí nghiệm khoa học, bằng việc hợp tác với trung tâm không gian. Tôi cho rằng nếu giải quyết được vấn đề cơ chế, chúng ta sẽ làm được nhiều hơn công nghệ không gian”, TS Hiền nói.

24/07/2025 11:43

report Cần chính sách thu hút và giữ chân nhân tài công nghệ vũ trụ

Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Viễn thám Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường:

Việc ứng dụng các sản phẩm của ngành công nghệ vũ trụ và phát triển kinh tế – xã hội và phòng, chống thiên tai đang gặp nhiều khó khăn, rào cản là do việc đầu tư vào các dự án công nghệ, như công nghệ giám sát thiên tai không mang lại lợi nhuận trực tiếp, mặc dù chúng có thể mang lại những giá trị lâu dài và bền vững cho xã hội.

z6835587097153-6b65c8b42d8edf6c8a3cb21b54c84914.jpg
Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Viễn thám Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Trên thực tế, hạ tầng công nghệ của Việt Nam còn rất yếu, lại chưa có kế hoạch và lộ trình phát triển hạ tầng công nghệ bài bản, mà thường nghiên cứu theo dự án, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành liên quan và tuân thủ kế hoạch chung.

Ngoài ra, chúng ta còn gặp thách thức khi tận dụng kho dữ liệu khổng lồ trong khi việc thu hút nhân tài ngành khoa học công nghệ để vận hành hệ thống có kiến thức đa ngành, nhất là về viễn thám.

Để giải quyết những thách thức vừa nêu, Cục Viễn thám Quốc gia kiến nghị nước ta cần đầu tư hạ tầng công nghệ bài bản, chính sách thu hút và giữ chân nhân tài để ngành công nghệ vũ trụ Việt Nam phát triển mạnh mẽ và lâu dài hơn.

24/07/2025 11:45

report Cần cơ chế thực nghiệm và hệ sinh thái mở

TS. Nguyễn Lương Quang, chuyên gia đến từ Viện năng lượng nguyên tử và năng lượng thay thế – CEA Paris-Saclay của Pháp:

Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân và TS. Nguyễn Trọng Hiền đã nói phần lớn những điều chúng ta nên làm để phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam. Tôi chỉ muốn đưa ra ví dụ cụ thể. Nhóm Vật lý thiên văn SAGI ở Quy Nhơn mà TS. Hiền là trưởng nhóm hoạt động với nguồn tài chính không nhiều – khoảng 5 tỷ VND, được Quỹ Simons của Mỹ tài trợ. Nhóm đã hoạt động được 3 năm, đến nay chỉ còn vài tháng nữa sẽ kết thúc dự án. Dù Quy Nhơn đi lại không thuận lợi như Hà Nội hay TP HCM, chúng tôi đã thu hút được hơn 200 nhà học nước ngoài tham gia và cùng làm việc với nhóm trong 3 năm qua.

z6835504008948-50d0884db284efc46270975e70141125.jpg
TS. Nguyễn Lương Quang, chuyên gia đến từ Viện năng lượng nguyên tử và năng lượng thay thế – CEA Paris-Saclay

Năm ngoái, hai sinh viên năm thứ nhất từ Anh về nghỉ hè đã thảo luận với chúng tôi về ý định làm tên lửa siêu thanh. Họ chỉ về nghỉ hè 6 tháng nhưng thực hiện ngay lập tức. Khi trở về Anh, họ nhận được sự hỗ trợ lớn của trường và một đơn vị tư nhân, và hiện tại họ đang phát triển tên lửa ở Anh, dù mới là sinh viên năm thứ hai.

Về hạ tầng, chúng tôi làm được nhiều việc, trong đó có đài thiên văn ở Đắk Lắk, nơi có địa hình đồi núi cao. Nhóm cũng đã xuất bản nhiều bài báo trong 3 năm qua. Đó là mô hình thực nghiệm cơ chế mà chúng tôi làm, trong đó trả lương cho các nhà nghiên cứu sau tiến sĩ ngang với quốc tế, để họ toàn quyền quyết định việc họ làm và đầu tư cho nghiên cứu của họ. Đó là điều quan trọng để thu hút người tài.

Chúng tôi cũng hợp tác với một số cơ quan nghiên cứu của Việt Nam. Tôi nhận ra là cơ chế đầu tư (về khoa học) của Việt Nam vẫn bị hạn chế. Ngành Vật lý thiên văn đòi hỏi đầu tư trang thiết bị lớn hơn nhiều so với nhưng ngành khác. Bài toán thứ hai vẫn là thương mại hoá. Chỉ thương mại hoá mới có thể thu hút được nhân tài. Nếu không có nơi cho người trẻ làm việc thì họ không muốn học.

Tôi cho rằng một số cơ quan cần làm việc với nhau để tạo vườn ươm khoa học công nghệ. Đại sứ quán Mỹ hằng năm tổ chức tổ chức cuộc thi NASA Space Apps Challenge, nhưng chỉ dừng lại ở việc cho phép sinh viên phát triển ý tưởng từ dữ liệu của NASA. Chúng ta cần làm những điều trên để tạo ra hệ sinh thái đủ lớn.

24/07/2025 11:58

report Xây dựng chiến lược kinh tế vũ trụ

PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam:

Muốn phá vỡ rào cản, khó khăn và thúc đẩy sự phát triển ngành công nghệ vũ trụ cần xây dựng chiến lược dài hạn, không chỉ ở mức 10 năm mà phải dài hơi hơn, đến năm 2040, 2050 và có cơ chế đẩm bảo tài chính đi theo chiến lược.

Hiện tại, việc điều phối các hoạt động vũ trụ còn phân mảnh giữa các bộ, ngành. Ủy ban Vũ trụ Việt Nam mới chỉ đang hoạt động ở mức “như một ban chỉ đạo”, mang tính tư vấn và phối hợp.

z6835664239071-85c3911caf6de7287755b2cf21f957a7.jpg
PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam

Để tạo ra một sức mạnh tổng hợp, cần xây dựng một cơ quan hàng không vũ trụ quốc gia. Tôi lấy ví dụ từ các quốc gia như Philippines, nơi có một cơ quan vũ trụ quốc gia trực thuộc chính phủ để điều hành tập trung, có luật vũ trụ.

Kinh tế vũ trụ toàn cầu được dự báo đạt 1.400 tỷ USD vào năm 2030, và các tỷ phú công nghệ hàng đầu thế giới đều đang đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực này. Đã đến lúc chúng ta cần xác định vũ trụ không chỉ là công nghệ chiến lược mà còn là một ngành kinh tế tiềm năng. Việc xây dựng một chiến lược quốc gia về kinh tế vũ trụ sẽ mở ra những cơ hội phát triển mới, từ ứng dụng vệ tinh, viễn thông, đến các dịch vụ liên quan.

Dự kiến tháng 9 tới, Trung tâm Khám phá Vũ trụ tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc sẽ được cấp phép đầy đủ và mở cửa hằng ngày cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ đến tham quan và khơi dậy niềm đam mê khoa học.

24/07/2025 12:05

report Đưa vũ trụ vào đời sống: Mỗi người cần biết và sử dụng ứng dụng không gian

Bà Lê Thanh HươngTổng Giám đốc Công ty TNHH Công Nghệ Sao Vega

Vũ trụ là lĩnh vực công nghệ cao đặc thù, đầu tư lớn, rủi ro cao. Là đơn vị đã có 10 năm đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu công nghệ vũ trụ, với những sản phẩm trí tuệ cao Công ty TNHH Công nghệ Sao Vega có những vướng mắc như: nhận thức xã hội còn rất hạn chế về công nghệ vũ trụ; đơn vị sử dụng nhiều nhất là cơ quan quản lý nhà nước nhưng lại chưa áp dụng các ứng dụng vũ trụ địa không gian vào công việc hàng ngày; nhân lực cho lĩnh vực công nghệ vũ trụ còn hạn chế.

Để thúc đẩy ngành công nghệ và dữ liệu vũ trụ, Chính phủ cần đưa công nghệ và dữ liệu Địa không gian vào chương trình chuyển đổi số Quốc gia. Nó chính là lớp nền quan trọng cho toàn bộ hệ thống số vận hành hiệu quả.

z6835693091375-facc39d8f43ce9f0f38d2236aae0d681.jpg
Bà Lê Thanh Hương, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Công Nghệ Sao Vega

Do đặc tính lớn nhất của dữ liệu Địa không gian chính là sự minh bạch, nên những thông tin chưa khớp do công nghệ sử dụng trước đây và bây giờ (ví dụ ranh giới đất, xây dựng không phép,…) nên cần có cơ chế miễn trừ trách nhiệm, vì nếu không có cơ chế này sẽ rất khó để thuyết phục các đơn vị lựa chọn thực hiện.

Đồng thời, cần triển khai chương trình phổ cập kiến thức vũ trụ cho toàn thể 100 triệu người dân Việt Nam. Theo đó, mọi người đã biết nhiều về 4 không gian sống xung quanh chúng ta là biển, đất liền, trên không, không gian mạng thì nay cần thêm không gian vũ trụ. Để thực hiện được việc này cần truyền thông và các bài giảng trong các trường cấp II, III, đại học và đặc biệt là các cơ quan ban ngành của chính phủ.

Viện vũ trụ và Địa không gian Vega (VSGA) đã biên soạn hàng trăm giáo trình đào tạo với các hình thức (offline, online và elearning) và tổ chức đào tạo cho hơn 3,000 chuyên gia trong lĩnh vực địa không gian. Mong muốn sẽ mở rộng đào tạo cho không chỉ chuyên gia mà cả những người sử dụng ứng dụng Địa không gian.

Địa không gian – lớp nền của chuyển đổi số quốc gia

Hiện nay, để giúp mọi người dân đều có thể tiếp cận và khai thác sử dụng Ứng dụng Địa không gian, VSGA đã xây dựng Nhà máy Ứng dụng công nghệ Địa không gian AI- GEOHUB dành cho tất cả (Geospatial application AI for all). Người có chuyên môn và cả những người không có chuyên môn (như kỹ sư xây dựng, nông dân, công nhân,…) đều có thể sử dụng được ứng dụng từ công nghệ vũ trụ.

z6835693075179-e9baaea86d098a950a50b71dd2d0222a.jpg
Bà Lê Thanh Hương, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Công Nghệ Sao Vega

VSGA và các nhà khoa học lâu năm trong lĩnh vực công nghệ cao mong muốn các cơ quan báo chí hãy đồng hành với chúng tôi truyền thông cho cả nước cùng 1 Tầm nhìn: xây dựng “Đất nước Việt Nam vũ trụ – Vietnam Space Nation”. Làm sao để đến 2030: 100 triệu người dân Viêt nam đều hiểu và sử dụng ứng dụng vũ trụ hiệu quả; Mọi cơ quan, tổ chức mạnh dạn sử dụng, đồng hành phát triển ứng dụng; 10 doanh nghiệp/start up tham gia phát triển vệ tinh.

Nghị quyết 57 và gần đây là 11 lĩnh vực khoa học công nghệ chiến lược chính là lực đẩy giúp công nghệ vũ trụ sớm được ứng dụng rộng rãi tại Việt nam. Do đó, đây là thời điểm vàng để đầu tư cho bầu trời, xây dựng nền công nghiệp vũ trụ, hướng tới xây dựng Vietnam Space Nation.

Hiện tại, VSGA đã phát triển mô hình đào tạo phát triển vệ tinh với 4 cấp độ học tập và mong muốn phổ cập kiến thức đến các trường phổ thông, trường đại học trong cả nước. Chúng ta cần có lớp trẻ đam mê khoa học, yêu ngành vũ trụ, mong muốn khám phá và đưa Việt nam vào kỷ nguyên vũ trụ.

VSGA dự kiến sẽ khai trương Space Lab tại Khu công nghệ cao Hòa lạc vào năm 2026, nơi đây sẽ là nơi các start up công nghệ vũ trụ được hỗ trợ và hợp tác. Tuy nhiên, VSGA đang sợ nhất về sự chậm trễ vì công nghệ vũ trụ phát triển rất nhanh, tuổi thọ của Vệ tinh rất hạn chế (LEO 3-5 năm), nên mọi sự chậm trễ trong thủ tục hành chính – chính sách – vốn đều dẫn đến thất bại.

Do đó, VSGA hi vọng Chính phủ có thể cấp thẻ ưu tiên cho lĩnh vực. Mọi yêu cầu phải được giải quyết rất nhanh và hiệu quả. Muốn vậy cần có chiến lược rõ ràng, dài hơi và phù hợp với ngành, công nghệ, thế mạnh cạnh tranh và đặc điểm của Việt nam.

Ngành công nghiệp phụ trợ – nhìn sang các nước, họ có khu công nghệ cao dành riêng cho vũ trụ, còn hiện giờ chúng ta đều phải thiết kế rồi gửi đi nước ngoài gia công, thời gian chờ đợi rất lâu, trong khi thiết kế phải sửa chữa nhiều mới đáp ứng.

Đây là lĩnh vực nhạy cảm, các nước không chuyển giao và chia sẻ công nghệ lõi nên nhà nước cần tạo điều kiện cho các chuyên gia trong nước ở các công ty tư nhân cùng tham gia các dự án chính phủ như phóng vệ tinh Vinasat, VNredsat, Lotusat,… để trau dồi thêm kinh nghiệm, kiến thức và cùng đóng góp cho sự thành công của các dự án.

Đặc biệt, Chính phủ nên ưu tiên đặt hàng các doanh nghiệp trong nước, kể cả tư nhân nghiên cứu – phát triển ứng dụng cũng như phát triển vệ tinh.

24/07/2025 12:10

report Thúc đẩy nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ vũ trụ

Ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ:

Thực hiện nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Chính phủ trao, trong thời gian qua Bộ KH&CN đã triển khai nhiều giải pháp để thúc đẩy lĩnh vực này, trong đó bao gồm:

– Về nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ứng dụng CNVT: Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình KH&CN cấp quốc gia về Công nghệ Vũ trụ, nhằm đưa các tiến bộ của KH&CN phục vụ cho phát triển các ngành kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Tiếp theo 3 giai đoạn (2008-2011) và (2012-2015), (2016-2020), đến nay Chương trình đang được triển khai ở giai đoạn 4 (2021-2030) với 4 nội dung chính: (1) Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện khung pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực vũ trụ; (2) Nghiên cứu phát triển Công nghệ Vũ trụ; (3) Nghiên cứu phát triển Ứng dụng công nghệ Vũ trụ; (4) Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng.

Đến nay, Chương trình đã huy động được sự tham gia của đông đảo đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học của các Bộ, ngành, địa phương, qua đó đạt được nhiều kết quả quan trọng, có tiềm năng ứng dụng ra thực tiễn, cả trong các lĩnh vực dân sinh cũng như góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.

Về phối hợp với các Bộ, ngành khác: Ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn về quản lý và ứng dụng dữ liệu vệ tinh, đảm bảo chia sẻ, khai thác hiệu quả, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh (cụ thể đã góp ý với Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nghị định thay thế Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 04/01/2019 của Chính phủ về hoạt động viễn thám)

Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích chuyển giao các công nghệ, sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ vũ trụ có tính lưỡng dụng giữa dân sự và quốc phòng, an ninh.

Về liên thông quốc tế: Bộ KH&CN đã và đang chủ trì, thực hiện các thủ tục đăng ký, phối hợp tần số, quỹ đạo vệ tinh với Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) và các nước liên quan. Hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện các thủ tục đăng ký, phối hợp tần số, quỹ đạo vệ tinh theo quy định của Liên minh viễn thông quốc tế.

– Về phát triển nguồn nhân lực và hạ tầng:Tập trung triển khai việc đào tạo các chuyên gia và các nhà khoa học trong lĩnh vực hàng không vũ trụ. Chính phủ tiếp tục đầu tư có trọng điểm Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, nâng cấp các phòng thí nghiệm chuyên sâu. Tập trung hỗ trợ các nhóm nghiên cứu mạnh về công nghệ vũ trụ tại các viện nghiên cứu và các trường đại học.

– Về ứng dụng thực tiễn: Có phương án thay thế 2 vệ tinh viễn thông VINASAT-1 và VINASAT-2, đảm bảo năng lực viễn thông quốc gia. Có phương án phát triển hệ thống định vị dẫn đường quốc gia, giảm phụ thuộc vào GPS toàn cầu. Ứng dụng khinh khí cầu và thiết bị bay tầng bình lưu để nghiên cứu khí quyển và phát triển khoa học về công nghệ vũ trụ.

– Về Hợp tác quốc tế và xã hội hóa: Kết nối với các tổ chức như NASA (Mỹ), JAXA (Nhật Bản), CNES (Pháp),… để phối hợp nghiên cứu và nhận chuyển giao công nghệ. Khuyến khích các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tham gia vào Hệ sinh thái về công nghệ vũ trụ của Việt Nam.

z6835621140251-91d1fb4d3b8df56462a1286490e187ad.jpg
Ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ

24/07/2025 12:15

anh-suong-1-6813.jpg

Kết luận buổi toạ đàm, nhà báo Phùng Công Sưởng, Tổng biên tập báo Tiền Phong gửi lời cảm ơn tới các vị khách mời, các chuyên gia đã có các ý kiến sẻ thú vị về lĩnh vực công nghệ vũ trụ. “Báo Tiền phong sẽ truyền tải thông tin rộng rãi nhất tới bạn đọc, đồng thời hy vọng cơ quan quản lý, những người có trách nhiệm sẽ tiếp thu các ý kiến, ý tưởng của các chuyên gia như: thành lập cơ quan hàng khônng vũ trụ; bổ sung ngành kinh tế vũ trụ…”, nhà báo Phùng Công Sưởng nói.

Sáng thứ Năm (24/7), Báo Tiền Phong tổ chức toạ đàm “Đưa công nghệ vũ trụ trở thành động lực phát triển mới”, với sự tham gia của 7 khách mời là những chuyên gia quốc tế và trong nước, đại diện cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong ngành công nghệ vũ trụ.

(Theo Tiền Phong)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *